Tỷ lệ trầm cảm ở Việt Nam
Rối loạn trầm cảm là một bệnh lý tâm thần thường gặp. Các lứa tuổi đều có nguy cơ mắc bệnh, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Trầm cảm làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng lao động, học tập, gây tốn kém về chi phí điều trị. Triệu chứng lâm sàng của bệnh rất phức tạp, việc nhận biết rất khó khăn; đặc biệt các trường hợp trầm cảm do bệnh cơ thể, do lạm dụng hoặc nghiện ma túy. Thái độ và sự kỳ thị của công đồng làm ảnh hưởng đến việc khám và chữa bệnh.
Người mắc trầm cảm rơi vào buồn chán, bi quan, thất vọng. Yếu tố tâm lý xã hội làm cho tỷ lệ bệnh nhân trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát cao. Tự sát là nguyên nhân gây chết thường gặp nhất trong lâm sàng tâm thần, thậm chí còn có hành vi tự sát mở rộng (giết người trước khi tự sát). Việc điều trị đòi hỏi chẩn đoán đúng, điều trị kiên trì mới đạt được kết quả tốt.
Theo nhiều báo cáo, tỷ lệ nghiên cứu trong đời người của rối loạn trầm cảm từ 1,5% - 19,0% dân số thế giới và tỷ lệ mắc hàng năm từ 0,8 - 5,8%. Tỷ lệ tự sát ngày càng tăng có liên quan đến trầm cảm. Ở Pháp, số người tự sát tăng từ 8.300 người (năm 1975) lên 12.041 người (năm 1994). Theo tác giả nghiên cứu về tự sát M.L.Bourgeois (1998), trong số người tự sát, rối loạn tâm thần chiếm 90% (trong đó trầm cảm chiếm 46%). Tự sát do trầm cảm không giảm, mà còn có xu hướng tăng cao hơn nhiều bệnh lý khác. Ở Việt Nam , người bệnh trầm cảm chiếm khoảng 4% dân số.

Dịch Covid-19 tác động khiến trẻ dễ rơi vào trầm cảm, ảnh minh hoạ.
Lâm sàng trầm cảm có một số đặc điểm chính như sau:
- Khí sắc trầm, nét mặt buồn bã, đơn điệu, bệnh nhân bi quan mất hy vọng, luôn trong trạng thái bất an, lo âu.
- Mất hứng thú với sở thích, các sở thích trước đây đều bị ảnh hưởng nặng nề, thậm chí chán hết tất cả, gia đình, người yêu, công việc, tiền bạc…
- Bệnh nhân luôn mệt mỏi, không muốn làm việc gì, mệt mỏi thường tăng lên vào buổi sáng.
- Ăn uống thường mất ngon miệng, tuy nhiên có 5% số bệnh nhân ăn nhiều dẫn đến giảm hoặc tăng trọng lượng cơ thể đến 5% mỗi tháng.
- Rối loạn giấc ngủ như khó vào giấc ngủ, hay thức giấc hay dậy sớm. Có 5% số bệnh nhân ngủ nhiều.
- Bệnh nhân luôn cảm thấy bồn chồn, bứt rứt, đứng ngồi không yên. Có cảm giác mình là người vô dụng hoặc tội lỗi, đây là một lý do hay gặp làm cho bệnh nhân có hành vi tự sát.
- Khó suy nghĩ, khó tập trung hoặc ra quyết định. Trí nhớ giảm.
Bên cạnh đó, bệnh nhân có nhiều triệu chứng cơ thể như đau đầu, đau nhức, đau bụng, đau cơ, khớp, rối loạn tiêu hóa, khó thở, loạn nhịp tim, tăng hoặc giảm huyết áp…
Hầu hết bệnh nhân trầm cảm luôn có ý nghĩ về cái chết, 50% có hành vi tự sát và 10% chết vì tự sát. Hành vi tự sát thường được lập kế hoạch, có các bước thực hiện kế hoạch như chuẩn bị phương tiện, thời gian, địa điểm, viết thư để lại, chào mọi người… Có trường hợp ý tưởng tự sát ập đến nhanh và bệnh nhân thực hiện ngay hành vi nguy hiểm này.
Dấu hiệu trẻ bị trầm cảm
Rối loạn trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên có thể biểu hiện bằng tâm trạng buồn chán, cáu giận hoặc rất nhạy cảm. Một số dấu hiệu của trầm cảm là thường xuyên cảm thấy tuyệt vọng, vô dụng, có lỗi hoặc tự ti, ít quan tâm hơn đến các hoạt động mà trước đây các em đã từng ưa thích; mệt mỏi, thiếu nhiệt tình và thường xuyên cảm thấy chán nản, khó tập trung chú ý; thay đổi đáng kể về khẩu vị hoặc cân nặng, xa lánh những người lớn hoặc giao tiếp kém.
Trẻ thường nghĩ tới cái chết, gây tổn thương cho bản thân, hoặc tự sát; thường xuyên cảm thấy khó chịu trong cơ thể (như là đau đầu, nhức mỏi cơ, đau bụng…); có tâm trạng tức giận, cáu gắt, thù hận hoặc có các hành vi nguy hiểm nghiêm trọng hơn (khóc, la hét, kêu la hoặc cáu giận mà không rõ nguyên nhân), hay nghỉ học hoặc học tập kém, dễ lạm dụng hoặc nghiện rượu và ma túy.
Trẻ có thể khó nhận biết và mô tả về cảm xúc và cảm giác của mình, các em có thể vẫn chưa biết cách bộc lộ bản thân bằng từ ngữ nên có thể biểu hiện cảm xúc của mình qua hành vi. Đôi khi những người lớn hiểu lầm những hành vi này là hành động không vâng lời hoặc thích thể hiện, nhưng đó có thể là các dấu hiệu của chứng trầm cảm.

Trẻ mắc trầm cảm thường có suy nghĩ gây tổn thương cho mình, ảnh minh hoạ.
Các bệnh cơ thể và tâm thần khác cũng có thể có các triệu chứng giống như các triệu chứng của rối loạn trầm cảm; và một đứa trẻ có thể cùng lúc mắc rối loạn trầm cảm và một số bệnh lý khác khác (như rối loạn lo âu, rối loạn hành vi, phổ tự kỷ hoặc các khuyết tật về nhận thức). Do đó, điều quan trọng là em cần được bác sĩ chuyên khoa khám kỹ lưỡng để chẩn đoán chính xác.
"Thủ phạm" gây ra trầm cảm
Cũng như ở người lớn, nguyên nhân trầm cảm được nhận thấy có yếu tố gia đình, có thể do gen di truyền, kết hợp với chán nản do những thất vọng (ví dụ bị bệnh nghiêm trọng) hoặc mất mát (ví dụ như cái chết của người thân). Các sự kiện và căng thẳng gây ra sự mất mát và đau buồn có thể gây ra một giai đoạn trầm cảm nặng.
Ở trẻ đi học và sinh viên, trầm cảm được cho là kết quả từ các yếu tố di truyền và những căng thẳng về môi trường (đặc biệt là sự thiếu thốn và mất mát trong cuộc sống), áp lực học tập...
Thực tế có rất nhiều yếu tố có thể tác động tới học sinh, sinh viên: những trẻ có thể lực yếu, gia đình có nhiều mối bất hòa, bố mẹ ly hôn - ly thân, thiếu sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ, mất người thân, mất tiền, tài sản. Một số yếu tố khác là áp lực học tập căng thẳng, gia đình hoặc bản thân kỳ vọng hoặc đòi hỏi quá khả năng của trẻ; ngủ ít do khó ngủ hoặc do học, do chơi quá nhiều ảnh hưởng thời gian ngủ.
Vấn đề nuôi dưỡng cũng có ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần. Một số trò chơi có thể dẫn tới nghiện như chơi game, cờ bạc, sử dụng một số chất như rượu, bia, café, thuốc lá, ma túy…
Các biểu hiện cơ bản của chứng rối loạn trầm cảm ở trẻ đi học và sinh viên tương tự như ở người lớn nhưng có liên quan đến những mối quan tâm điển hình của trẻ, chẳng hạn như học tập và chơi đùa. Trẻ em có thể không giải thích được cảm xúc bên trong hoặc tâm trạng. Trầm cảm cần được xem xét khi những đứa trẻ hoạt động kém đi so với trước đó, xa lánh xã hội, hoặc có hành vi phạm pháp.
Ở một số trẻ có rối loạn trầm cảm, tâm trạng nổi trội là khó chịu, cáu gắt bực bội, kích thích, gây hấn thay vì buồn (một sự khác biệt quan trọng giữa trầm cảm ở trẻ và người lớn). Sự khó chịu có thể biểu hiện như hành vi hiếu chiến và thái độ chống lại xã hội. Ở trẻ khuyết tật trí tuệ, chứng rối loạn tâm trạng trầm cảm hoặc rối loạn tâm trạng khác có thể biểu hiện như các triệu chứng của các bệnh cơ thể và rối loạn hành vi.
Trong đại dịch Covid-19, tỷ lệ trẻ em bị trầm cảm tăng lên do nhiều yếu tố: bị cách ly, học online, hạn chế giao tiếp với người thân và bạn bè, căng thẳng tâm lý trong gia đình như bố mẹ bất hòa, thiếu thốn về kinh tế, áp lực học tập. Nhiều trẻ chơi game hoặc sử dụng điện thoại, máy tính nhiều, sử dụng chất như bóng cười, rượu, ma túy, cỏ… Bản thân việc nhiễm Covid -19 cũng làm tăng trầm cảm lo âu, rối loạn stress. Và vì vậy tỷ lệ tự sát cũng tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, việc nhận biết trầm cảm, lo âu, rối loạn stress, tâm thần phân liệt, rối loạn hành vi nhân cách ở trẻ em rất khó. Gia đình cần gần gũi quan tâm, sớm nhận biết bất cứ dấu hiệu bất thường nào ở trẻ để chia sẻ và tìm sự tư vấn từ các bác sĩ.
https://soha.vn/dieu-gi-khien-tre-em-bi-tram-cam-giao-su-chi-ra-nhung-nguyen-nhan-pho-bien-nhat-20220404062801363.htm